CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH

Văn hóa - Xã hội
Nghe kể chuyện “làm báo ở chiến trường”
Thứ sáu 20/06/2025 11:20

Chưa thấy ở đâu mà lực lượng các nhà văn hùng hậu như ở Khu V trong chiến tranh. Cũng chưa thấy ở đâu mà những nhà báo nằm lại chiến trường nhiều như ở dải đất miền Trung. Nhiều người trong số họ vào chiến trường Nam với tâm nguyện là để viết văn, nhưng chiến tranh đã buộc họ phải vừa cầm súng vừa cầm bút, phản ảnh cuộc chiến đấu nóng bỏng qua những bài báo.

Cách đây 3 năm, hàng chục nghệ sĩ ở nhiều lĩnh vực khác nhau đã có cuộc “tìm về” đẫm nước mắt trên căn cứ địa của Khu V, thuộc vùng rừng Trà My (Quảng Nam). Tóc bạc da mồi, chân đi không còn vững nữa, nhưng những cụ ông, cụ bà chuẩn bị bước vào tuổi tám mươi này vẫn còn nguyên vẹn ký ức thanh xuân từ hơn 50 năm trước. Bấy giờ, họ là những chàng trai, cô gái đang tuổi hai mươi đã tạm biệt Hà Nội để tăng cường cho chiến trường Khu V đang vào hồi khốc liệt nhất. Trong số những chàng trai cô gái thanh xuân vào chiến trường Quảng Nam những năm tháng đầy trời lửa đạn ấy có những người ấp ủ một ước nguyện lãng mạn - viết nên những trang văn mang hơi thở nóng hổi của chiến trường. Tuy nhiên, thực tế của cuộc chiến đã buộc họ tạm gác lại mọi dự định để làm người lính.

Làm báo trước, viết văn sau

Nhà văn Cao Duy Thảo- tác giả truyện ngắn Thời gian nổi tiếng vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, là người vào chiến trường từ rất sớm (1966), nhớ lại: “Tôi học trường điện ảnh, ấp ủ viết kịch bản phim, nhưng khi vào Khu V tôi mới biết, thực tế chiến trường không như mình tưởng tượng từ hồi còn ở Hà Nội. Khu V hồi đó có tờ Tạp chí Văn nghệ nhưng ưu tiên hơn cả vẫn là những bút ký nặng tính báo chí, phản ảnh cho được không khí của quân và dân ta ở các mặt trận.

Các nhà văn, nhà báo tại vùng rừng Trà My (Quảng Nam) thời chống Mỹ. Ảnh: Nhà văn Cao Duy Thảo cung cấp

Để thực hiện yêu cầu ấy, các nhà văn trẻ thay nhau khoác ba lô “hạ sơn”, bám theo các đơn vị bộ đội trực tiếp tham gia các chiến dịch như một người lính thực thụ. Chẳng hạn như anh Nguyễn Chí Trung (từng làm trợ lý Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu - PV) cùng Sư đoàn 2 tham gia đánh trận Ba Gia nổi tiếng cả nước vào mùa hè năm 1965, hoặc trực tiếp chỉ huy diệt một ổ hỏa lực đã từng gây thương vong rất lớn cho bộ đội ta trong trận Khâm Đức (Quảng Nam) năm 1972. Anh Trung là nhà văn có nhiều giai thoại nhất chung quanh việc “đi thực tế” để lấy tư liệu viết báo, viết văn của Khu V”.

Không trực tiếp chiến đấu ở chiến trường Khu V, nhưng nhà thơ Thanh Thảo rất “thuộc” những người bạn của mình. Ông kể rằng, vào cuối năm 1970, tại Quảng Bá, Hội Nhà văn Việt Nam có mở một lớp cấp tốc “bồi dưỡng” cho những cây bút vừa tốt nghiệp các khoa văn, sử của các trường ĐH nhưng đam mê sáng tác để họ nắm các kỹ năng viết văn trước khi đi B. “Tôi mơ ước được tham dự lớp học “danh giá” ấy nhưng chẳng được, nên chọn con đường làm phóng viên chiến trường Nam bộ thuộc Ban Binh vận và đi thẳng vào miền Nam” - Thanh Thảo chia sẻ.

Những nhà văn tương lai của lớp học ở Quảng Bá sau này nhiều người thành danh trong văn học như Nguyễn Khắc Phục, Ngô Thế Oanh, Vũ Thị Hồng (vợ nhà văn Chu Lai)…, hoặc thành danh trên chính trường như Phạm Quang Nghị, Nguyễn Đức Hạt… Còn Thanh Thảo - từ một nhà báo chuyên nghiệp ông trở thành một nhà thơ nổi tiếng khi ông tham gia Trại sáng tác Khu V ngay sau ngày hòa bình do nhà văn Nguyễn Chí Trung làm trại trưởng.

Ngoài việc viết báo, khi ấy những nhà văn luôn tìm cách giữ ngọn lửa đam mê văn học bằng việc viết nhật ký. Có thể xem những trang nhật ký của Dương Thị Xuân Quý, của Chu Cẩm Phong như những phác thảo cho các quyển tiểu thuyết dày dặn sau này. Rất tiếc, cuộc chiến tranh quá khốc liệt đã khép lại bao dự định của họ. Cuốn “Nhật ký chiến tranh” của Chu Cẩm Phong ghi lại toàn bộ những diễn biến của chiến trường mà ông chứng kiến, cho đến khi ông cùng 3 đồng đội chiến đấu đến viên đạn cuối cùng trước khi hy sinh tại xã Duy Tân huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam vào mùa hè năm 1971.

Còn Dương Thị Xuân Quý, sau nhiều tháng ở nhà giữ rẫy, tháng 3.1968, chị về vùng sâu ở phía Đông huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam và vĩnh viễn tan vào mảnh đất này sau một trận phục kích của lính Nam Triều Tiên, mà cho đến hôm nay, không một ai có thể biết thân xác của chị gửi vào đâu trên mảnh vườn của một gia đình ở xã Duy Thành. Những trang nhật ký dở dang, những bài báo chép vội trên đường của nữ phóng viên Dương Thị Xuân Quý mãi mãi dừng lại cùng tuổi 28 của chị.

Báo nhường cho văn

Sau ngày hòa bình, nhà văn Nguyễn Chí Trung cùng các cộng sự đã thành lập ngay Trại sáng tác Khu V, tập hợp toàn bộ những nhà báo có triển vọng về văn học trong toàn quân khu về Đà Nẵng để “ngồi đó mà viết văn”. Một thế hệ nhà văn “sinh sau đẻ muộn” trong chiến tranh chống Mỹ đã ra đời từ đó: Thanh Thảo, Thái Bá Lợi, Trần Vũ Mai, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Trí Huân, Trung Trung Đỉnh…

Cũng khó để phân biệt một cách rạch ròi là báo hay văn quan trọng hơn trong giai đoạn lịch sử đó. “Nhờ làm báo - viết liên tục cho Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh giải phóng, tôi có điều kiện để giáp mặt với thực tế của cuộc chiến tranh. Những bài thơ ưng ý nhất và cũng mang lại cho tôi nhiều phiền toái nhất là những bài thơ tôi xuống chiến trường Nam bộ vào cuối năm 1972. Nếu anh không lăn lộn với tư cách là một nhà báo thì cũng khó có được những bài thơ lấm lem bụi đất của chiến hào như vậy” - nhà thơ Thanh Thảo tâm tình.

Còn nhà văn Cao Duy Thảo, nhà thơ Ngô Thế Oanh từng về “nằm vùng” nơi xảy ra vụ thảm sát Sơn Mỹ cùng nhiều vùng quê khác ở hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định trong nhiều tháng liền, để rồi cả hai có những truyện ngắn, những bài thơ hay nhất của đời mình sau những bài báo “nóng hổi” ngay trong lúc giao tranh.

Sau những nóng sốt của các bài báo là những lắng đọng chiêm nghiệm của mỗi nhà báo- nhà văn. Cả một thế hệ cùng đất nước ra trận trong những năm chiến tranh và đã in dấu ấn của mình trên những trang viết - cả báo lẫn văn. Ngưỡng mộ thay!             

TRẦN ĐĂNG