Dấu ấn nhà ngoại giao
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân ở vùng quê nghèo khó xã Nghi Thọ (nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), tận mắt chứng kiến nỗi cơ hàn của người dân mất nước, Nguyễn Duy Trinh sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1927, ông tham gia phong trào học sinh đấu tranh chống áp bức của đế quốc và phong kiến, đòi tự do hoạt động chính trị ở Vinh. Năm 1928, Nguyễn Duy Trinh gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng - một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động ở TP Sài Gòn và sau đó bị thực dân Pháp bắt, kết án 18 tháng tù.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định Paris. Ảnh: TTXVN
Năm 1930, Nguyễn Duy Trinh tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, đồng chí là Bí thư Huyện ủy Nghi Lộc; đến cuối năm thì bị bắt và bị kết án 13 năm tù khổ sai, đày đi Buôn Ma Thuột, Kon Tum và Côn Đảo. Tháng 5.1945, đồng chí Nguyễn Duy Trinh ra tù và tham gia vận động khởi nghĩa ở Vinh và Huế.
Tháng 4.1965, trước yêu cầu mới của cách mạng, đồng chí Nguyễn Duy Trinh được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị phân công giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đây là thời kỳ thử thách gay go nhất kể từ khi Mỹ đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và mở rộng chiến tranh ra miền Bắc; là thời kỳ chúng ta thực hiện đường lối đấu tranh cách mạng miền Nam trên cả ba mặt trận (quân sự, chính trị và ngoại giao) để đưa đến việc ký kết Hiệp định Paris, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Với cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đồng chí Nguyễn Duy Trinh phụ trách toàn bộ mặt trận ngoại giao, bao gồm đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Đồng chí đã tích cực tham gia xây dựng, hoàn thiện đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng và chính sách ngoại giao của Nhà nước nhằm đoàn kết, tập hợp lực lượng quốc tế giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Mở đường cho thắng lợi
Tháng 1.1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đề ra chủ trương mở mặt trận đấu tranh ngoại giao, vận dụng sách lược "vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh" để cùng với các mặt trận quân sự và chính trị tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi. Người dân cả nước đã nức lòng khi người đứng đầu Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ cộng hòa Nguyễn Duy Trinh ra Tuyên bố ngày 28.1.1967, nêu rõ: "Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mỹ mới có thể nói chuyện". Tuyên bố này là một đòn tấn công ngoại giao lớn nhằm làm thất bại hẳn luận điệu "đàm phán không điều kiện" mà Mỹ từng đưa ra suốt 2 năm trước đó để làm bình phong leo thang chiến tranh, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán.
Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam từ tháng 5.1968 đến tháng 1.1973 là cuộc đàm phán dài nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh trong thế kỷ XX, là tâm điểm đối chọi giữa nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường với nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ.
Sau gần 5 năm đấu tranh bằng trí tuệ và bản lĩnh với hơn 200 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, cuộc đàm phán đã kết thúc. Ngày 27.1.1973, đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đã chính thức ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Thắng lợi vẻ vang của đàm phán Paris và Hiệp định Paris đã buộc Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam Việt Nam, mở đường cho đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước. Quá trình đàm phán ở Paris và Hiệp định Paris là chiến thắng của một nền ngoại giao non trẻ nhưng đầy chính nghĩa và mưu lược của cách mạng Việt Nam, ghi đậm dấu ấn của nhà ngoại giao Nguyễn Duy Trinh.
Trong thời kỳ xây dựng lại đất nước sau hơn 30 năm bị chiến tranh tàn phá nặng nề, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh, ngành Ngoại giao Việt Nam vừa tranh thủ sự hỗ trợ của các nước XHCN và cộng đồng thế giới vừa đấu tranh chống bao vây cấm vận. Chính trong thời kỳ khó khăn ấy, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của LHQ, đánh dấu việc cộng đồng thế giới công nhận tính pháp lý và tư cách đại diện của Nhà nước ta tại tổ chức đa phương lớn nhất toàn cầu này.
Ngày 21.7.1977, đồng chí Nguyễn Duy Trinh thay mặt Đảng và Nhà nước ta tham gia Lễ thượng cờ tại Trụ sở LHQ. Chính đồng chí đã kiến tạo các chuyến thăm của lãnh đạo nước ta tới các nước trong khu vực, dẫn tới việc Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh đã có công lao, đóng góp to lớn trên mặt trận ngoại giao nước nhà.
Quang Lợi/ Báo Bình Định