CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chính trị
Chủ động dự báo và xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước đến năm 2045
Thứ hai 10/10/2022 15:25

Để hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI cần nhận diện đầy đủ và hành động chính xác, kịp thời đối với những vấn đề mang tính chiến lược của đất nước. Trong đó, có vấn đề chủ động dự báo và xây dựng, bảo đảm cấu trúc xã hội phù hợp với bối cảnh và mục tiêu phát triển của Việt Nam. Quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình chủ động dự báo và thiết lập hệ thống cấu trúc xã hội phù hợp, đồng bộ, hài hòa, bền vững theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Cảng Hải phòng. (Ảnh minh họa bài viết)

XÂY DỰNG CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Trong các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn nhận rõ tầm quan trọng của việc xây dựng cấu trúc xã hội của quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi về kinh tế, xã hội(1). Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã chỉ rõ: Thực hành các giải pháp, chính sách và quản lý để “…bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý”; “…thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội”(2).

Từ góc độ tiếp cận xã hội học, có thể hiểu cấu trúc xã hội là cách thức tổ chức bên trong, là hệ thống chỉnh thể các thành phần và mối quan hệ tương đối ổn định, bền vững tạo nên hệ thống xã hội, được tiếp cận và xem xét đồng thời ở nhiều khía cạnh, cấp độ khác nhau. Cấu trúc xã hội phản ánh những đặc tính, đặc điểm, điều kiện, nguồn lực, khả năng phát triển, mục tiêu và khuynh hướng phát triển của một tổ chức, cộng đồng, quốc gia dân tộc.

Mặc dù cấu trúc xã hội đã được quan tâm nghiên cứu, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy vậy, các nghiên cứu về cấu trúc xã hội chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội,…để từ đó có chủ trương phù hợp. Do đó, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đặt ra yêu cầu: Dự báo đúng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, xây dựng chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp(3).

Từ góc độ tiếp cận cấu trúc xã hội, có thể nhận thấy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã thể hiện rõ tư duy, tầm nhìn và hành động nhằm hướng tới xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp trong bối cảnh mới, khi xác định mục tiêu tổng quát: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(4).

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định mục tiêu: Đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để góp phần hiện thực hóa mục tiêu này, một trong những vấn đề đặt ra là phải đặt trong mối liên hệ với vấn đề cấu trúc xã hội hội. Cấu trúc xã hội luôn vận động, biến đổi và đóng vai trò quan trọng đối với việc hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 tầm nhìn 2045. Do đó, chủ động dự báo và xây dựng cấu trúc xã hội giữ vai trò rất quan trọng, là cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách và thực hiện quản lý xã hội, bảo đảm xã hội phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Quá trình xây dựng cấu trúc xã hội để hướng đến mục tiêu đổi mới và phát triển xã hội bền vững của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay chính là quá trình xây dựng, phát triển các thành phần của cấu trúc xã hội; quá trình xác lập các mối quan hệ giữa các thành phần tạo nên cấu trúc xã hội một cách phù hợp với yêu cầu và bối cảnh mới của đất nước. Quá trình xây dựng cấu trúc xã hội là thường xuyên nhằm phát hiện và khắc phục những hạn chế, thiếu sót, bất cập trong quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện phát triển hệ thống kinh tế - xã hội. Một trong những yếu tố cốt lõi để thúc đẩy tổ chức, cộng đồng và đất nước Việt Nam phát triển bền vững cần nhấn mạnh, giải quyết có hiệu quả vấn đề: xây dựng, tái cấu trúc xã hội phù hợp với điều kiện, nguồn lực, mục tiêu, yêu cầu...trong bối cảnh mới. Đồng thời, cần dự báo, xây dựng một cấu trúc xã hội phát triển phù hợp, trong đó cần ưu tiên xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn...Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới...Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc (5).

Trong tư duy, tầm nhìn và hành động cần xác lập cấu trúc xã hội là một công cụ tiếp cận và phân tích quan trọng; giúp chúng ta nhận thức được một tổ chức, cộng đồng, đất nước Việt Nam trong tiến trình phát triển đã, đang và sẽ có những thành công và hạn chế như thế nào; những thuận lợi, khó khăn trở ngại chủ yếu ra sao; các giải pháp và mục tiêu đề ra có tính khả thi hay không...?. Từ phương diện tiếp cận cấu trúc xã hội, có thể khẳng định quá trình đổi mới và phát triển đất nước Việt Nam hướng mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính là quá trình biến đổi, điều chỉnh và phát triển quan hệ giữa các thành phần và trật tự thứ bậc, các mối quan hệ trong nội bộ cấu trúc xã hội theo nghĩa rộng; là quá trình hướng đến sự hài hòa, đồng bộ giữa cấu trúc xã hội, cấu trúc chính trị, cấu trúc kinh tế, cấu trúc văn hóa.

Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

ĐỊNH HƯỚNG VỀ DỰ BÁO VÀ XÂY DỰNG CẤU TRÚC XÃ HỘI PHÙ HỢP VỚI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TỚI NĂM 2045

Hành vi, hành động và quan hệ xã hội của con người bị cấu trúc xã hội, song cấu trúc xã hội là được hình thành và thúc đẩy là do chính sự nỗ lực của con người nỗ lực. Do đó, để đảm bảo cấu trúc xã hội phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước vào năm 2045, chúng ta không chỉ chủ động dự báo sự biến đổi cấu trúc xã hội mà còn phải chủ động xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước.

Hà Nội từ trên cao. (Ảnh minh họa)

Trong khuôn khổ bài viết, có thể xác định một số định hướng giải pháp như sau:

Một là, để bảo đảm dự báo sự biến đổi và chủ động xây dựng cấu trúc xã hội của Việt Nam phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, cần tăng cường tính kết nối đồng bộ, hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hội nhập quốc tế; phát triển đô thị bền vững; xây dựng nông thôn mới; thực hiện dân chủ gắn liền với trách nhiệm, kỷ cương xã hội...nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước trên 5 trụ cột: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường.

Hai là, để từng bước có một cấu trúc xã hội phù hợp nhằm thúc đẩy xã hội phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần tạo dựng mối quan hệ vị thế xã hội và vai trò xã hội trong cấu trúc xã hội phù hợp; quyền lợi, nghĩa vụ tương ứng với vị thế và vai trò mong đợi của xã hội. Đồng thời, để hướng đến một xã hội năng động, sáng tạo, phát triển và bảo đảm mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa cần tạo động lực tích cực cho sự chuyển hóa liên tục về vị thế và vai trò của cá nhân, nhóm xã hội. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy việc hình thành và phát huy vai trò của hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội phù hợp với bối cảnh phát triển mới của đất nước.

Ba là, cần định vị và xây dựng cho toàn bộ xã hội Việt Nam không chỉ hành động vì mục tiêu lợi ích (lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chính đáng) mà quan trọng hơn là phải đi tới một xã hội được dẫn dắt và hành động bởi động lực thúc đẩy giá trị xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh xã hội mà sự mâu thuẫn, xung đột xã hội cũng như giá trị xã hội và niềm tin xã hội đang có nhiều biểu hiện bất cập. Do đó, để bảo đảm mục tiêu trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, rất cần bảo đảm động lực thúc đẩy cho con người và xã hội phát triển không chỉ là “lợi ích xã hội mà còn là giá trị xã hội”. Đó là việc các cá nhân, nhóm, cộng đồng, giai tầng xã hội hướng tới lợi ích hài hòa và các giá trị tiến bộ, nhân văn, vì hạnh phúc bền vững trong phát triển xã hội. Cần thúc đẩy hệ thống giá trị xã hội theo định hướng chủ đạo: (1) sự tiến bộ, công bằng và bình đẳng xã hội; (2) cơ hội, khát vọng và năng lực làm giàu chính đáng, hợp pháp của mọi người dân, mọi giai tầng xã hội; (3) sự tự do sáng tạo, tích cực thực hành dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật trong xã hội; (4) sự đồng thuận, đoàn kết hữu cơ, “cùng thích nghi, cùng thắng, cùng phát triển” và công dân toàn cầu. Việc định hướng xây dựng, “lợi ích hài hòa”, “xã hội giá trị” là quá trình lâu dài, do đó cần có sự lãnh đạo thống nhất, trực tiếp và liên tục của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Bốn là, cần thực sự quán triệt và thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Con người là trung tâm của quá trình phát triển kinh tế*xã hội; đồng thời vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội”. Cần định vị và xây dựng các nhóm xã hội trong cấu trúc xã hội theo định hướng mô hình: (1) phát triển, trọng dụng và phát huy tối đa vai trò của nhóm xã hội cống hiến/tinh hoa; (2) mở rộng và phát huy tối đa vai trò của “nhóm nền”- tức là xây dựng mở rộng tối đa hóa những công dân tích cực, trách nhiệm xã hội của đất nước; (3) quan tâm thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, gắn kết và phát huy vai trò của nhóm “yếu thế” trong xã hội; (4) thực hiện kiểm soát, giảm thiểu thấp nhất về quy mô và tác hại xã hội đối với nhóm sai lệch xã hội, nhóm vi phạm pháp luật, nhóm tội phạm; (5) thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với gia đình chính sách, người có công.

Năm là, cần đẩy mạnh việc “rút ngắn khoảng cách” tình trạng không tương thích giữa cách thức, mục tiêu học tập, đào tạo, bồi dưỡng và với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh mới. Muốn vậy, cần xử lý tốt mối quan hệ giữa mục tiêu giáo dục nhằm tạo ra những chủ thể xã hội có tính sáng tạo, có tinh thần dân chủ, tự do gắn liền với tính trách nhiệm xã hội và kỷ cương, kỷ luật cao. Đồng thời, mỗi con người, thành viên của tổ chức, cộng đồng và quốc gia dân tộc luôn phải có ý thức thực hiện tốt mục tiêu: “học tập suốt đời, học tập ở mọi nơi, mọi lúc; học biết cách học, học để làm việc; học để sáng tạo, học để chung sống”. Muốn vậy, quá trình giáo dục, đào tạo, xã hội hóa cần nhấn mạnh tính phù hợp, tương tác xã hội thường xuyên, khả năng tự học hỏi lẫn nhau của các chủ thể xã hội.

Sáu là, phát huy vai trò của các môi trường xã hội hóa: vai trò gia đình, nhà trường, nhóm xã hội, truyền thông...trong quá trình xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp với mục tiêu trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Quá trình xã hội hóa cần tạo lập vị thế và vai trò xã hội ở 3 cấp độ mục tiêu cơ bản: (1) làm con người hiện đại, hội nhập trong mối quan hệ với cộng đồng nhân loại trên thế giới; (2) làm công dân có trách nhiệm xã hội trong mối quan hệ với quốc gia, dân tộc; (3) làm phận sự chức nghiệp hiệu lực, hiệu quả trong mối quan hệ với vị thế, vai trò nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động.

Bảy là, trong hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách phát triển kinh - tế xã hội của đất nước, cần tăng cường tính kết nối bởi các lát cắt cấu trúc xã hội khác nhau: (1) Cấu trúc xã hội - giai cấp; (2) Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp, mức sống; (3) Cấu trúc xã hội - giới; (4) Cấu trúc xã hội - lứa tuổi; (5) Cấu trúc xã hội - học vấn; (6) Cấu trúc xã hội - dân tộc; (7) Cấu trúc xã hội - tôn giáo; (8) Cấu trúc xã hội nông thôn - đô thị...Trên cơ sở đó sẽ phát huy tối đa sức mạnh, khả năng tác động, mức độ thành công; cũng như nhìn thấy được sự “giới hạn” của từng chính sách kinh tế * xã hội trong tổng thể mục tiêu phát triển đất nước: nhanh, hài hòa và bền vững.

Tám là, trong các hoạt động quản lý, giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế * xã hội ở Việt Nam, bên cạnh hoạt động quản lý nhà nước cần gia tăng tư duy, phương pháp và mô hình quản lý phát triển xã hội. Tăng cường sự phối hợp, phát huy vai trò của các chủ thể: nhà nước, thị trường xã hội trong công tác dự báo, hoạch định và tổ chức thực chính sách phát triển xã hội bền vững. Trong đó nhấn mạnh vai trò tham gia đa chủ thể quản lý, bằng nhiều hệ thống công cụ quản lý; quan tâm và tập trung vào những vấn đề mà quản lý nhà nước chưa vươn tới, gặp khó khăn, ít hiệu quả...Chẳng hạn, để kiểm soát xã hội, kiểm soát quyền lực, kiểm soát tham nhũng...có hiệu lực và hiệu quả cần phát huy vai trò tham gia của nhiều chủ thể xã hội và thông qua hệ thống công cụ tác động đồng thời bởi các thiết chế xã hội: thiết chế pháp luật, thiết chế chính trị, thiết chế kinh tế, thiết chế gia đình, thiết chế giáo dục, thiết chế đạo đức, thiết chế văn hóa, thiết chế truyền thông, thiết chế dư luận xã hội...

Chín là, tăng cường dự báo và xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp trong mối quan hệ chặt chẽ với việc dự báo và phát triển cấu trúc kinh tế, cấu trúc chính trị và cấu trúc văn hóa của đất nước. Đặc biệt là từ các phương diện kết nối với cấu trúc kinh tế, cấu trúc chính trị, cấu trúc văn hóa để hình thành cấu trúc xã hội- giai tầng phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước vào năm 2045. Đó là, giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và công nghiệp hóa, đô thị hóa; đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tình hình mới; phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng, chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc. Đồng thời, logíc tất yếu của tiến trình này là sự hình thành, phát triển tầng lớp trung lưu có vai trò, trách nhiệm và ảnh hưởng ngày một lớn đối với xã hội. Để trở thành một đất nước công nghiệp phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải xây dựng mô hình phân tầng xã hội dạng “quả trám”; với cấu trúc tầng lớp trung lưu chiếm đa số trong xã hội sẽ đảm bảo cho sự phát triển ổn định, hài hòa và bền vững của một cấu trúc xã hội hiện đại..

Mười là, từng bước nâng tầm kế hoạch phát triển mới của đất nước trong  xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách phát triển kinh tế*xã hội của đất nước. Trong đó chú trọng chỉ báo về dự báo, xây dựng cấu xã hội phù hợp với trình độ phát triển và mục tiêu phát triển xã hội bền vững của đất nước. Kết quả của thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế* xã hội sẽ được đánh giá bằng các chỉ số về “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”; “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”…

Mười một là, cần đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản, hệ thống, hiệu quả về cấu trúc xã hội. Đánh giá đúng thực trạng, dự báo đúng xu hướng biến đổi, chủ động xây dựng cấu trúc xã hội phù hợp ở nước ta trong những năm tới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII. Muốn vậy, cần tăng cường các nghiên khoa học cứu dựa trên dữ liệu số lớn, với hướng tiếp cận đa- liên-xuyên ngành khoa học. Trên cơ sở đó cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn kịp thời, chính xác làm nền tảng cho Đảng và Nhà nước đề ra đường lối, chính sách pháp luật thúc đẩy ngày càng hiệu quả, hiệu lực hơn trong việc thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, đảm bảo định hướng chủ nghĩa xã hội vào năm 2045.

TS. Đỗ Văn Quân - Nguồn Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương

-------------------- 

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.85

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.135

(3) (4) (5)  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tr 148, 14, 14