Vấn đề quản lý phát triển xã hội đã trở thành một chủ đề được đặc biệt quan tâm trong Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và XIII, tuy nhiên ở góc độ nghiên cứu khoa học và can thiệp trong thực tiễn quản lý phát triển xã hội vẫn còn còn khá mới mẽ trong nhận thức, tư duy và hành động của không ít cán bộ và tổ chức trong hệ thống chính trị; cũng như trong toàn bộ hệ thống xã hội.
Ảnh minh họa
QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI BỀN VỮNG THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đặt ra mục tiêu: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trong điều kiện hiện nay, một nước phát triển không phải chỉ hùng mạnh và bền vững về kinh tế mà xã hội cũng phải đạt được trình độ phát triển bền vững tương xứng. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã xác lập tầm quan trọng đặc biệt của quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh phát triển đất nước hiện nay, do đó đã dành riêng Mục VIII. Tăng cường quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Để góp phần đảm bảo mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển vào giữa thế kỷ XXI theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Văn kiện Đại hội XIII đã nhấn mạnh việc thực hiện có hiệu lực, hiệu quả quản lý phát triển xã hội như là một trong những điều kiện có tính chất quyết định: Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người (1). Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội(2). Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội(3).
Trên cơ sở kế thừa tích hợp một số quan điểm đã được công bố, có thể hiểu quản lý phát triển xã hội bền vững chính là sự tác động có định hướng, có tổ chức của các chủ thể quản lý (Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cộng đồng, nhóm xã hội và cá nhân công dân…) đến khách thể quản lý (biến đổi kinh tế-xã hội-chính trị-văn hóa, môi trường; các vấn đề xã hội, sai lệch xã hội, tình huống xã hội bất thường,...) bằng một hệ thống thiết chế xã hội nhằm tích hợp sức mạnh của toàn bộ hệ thống xã hội để thực hiện mục tiêu phát triển xã hội nhanh, hài hòa, bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Quản lý phát triển xã hội bền vững bao hàm nội dung phức tạp, đó là quá trình quản lý quá trình phát triển xã hội hướng tới tính bền vững, tức là trong mục tiêu và chính sách, không chỉ quan tâm đến các thành quả của tiến bộ xã hội mà còn đặc biệt chú ý đến khía cạnh gắn kết, bảo đảm sự tương thích đồng bộ giữa cải thiện tiến bộ xã hội với các thành quả của phát triển kinh tế (4).
Các nghiên cứu về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam được thực hiện trong khoảng 20 năm trở lại đây, có thể khái quát hệ thống một số thành tựu thể hiện trong nhận thức, tư duy và hành động hoạt động quản lý phát triển xã hội bền vững, bao gồm: 1) Tính tất yếu, khách quan, sáng tạo, chủ động và tầm quan trọng của hoạt động quản lý phát triển xã hội nhằm đáp ứng với tiến trình phát triển xã hội, các đặc điểm phát triển và mục tiêu phát triển của xã hội Việt Nam; 2) Hoạt động quản lý phát triển xã hội chính là hướng đến việc thừa nhận có nhiều cách thức tư duy, tiếp cận giải thích và can thiệp của nhà nước, thị trường và xã hội trước những vấn đề đặt ra của thực tiễn phát triển xã hội; đề cao việc tôn trọng và lắng nghe lợi ích của cá nhân, nhóm xã hội; 3) Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, hoạt động quản lý phát triển xã hội đã và đang tập trung vào hiện tượng xã hội mới, phức tạp, nan giải; những vấn đề mà quản lý nhà nước chưa vươn tới, chưa hiệu quả, còn nhiều bất cập; 4) Lấy con người làm điểm xuất phát, mục tiêu, động lực của hoạt động quản lý phát triển xã hội; 5) Thể hiện sự cùng tham gia đồng thời của nhiều chủ thể xã hội gắn liền với việc sử dụng hệ thống thiết chế xã hội, trong đó ngày càng hướng đến việc sử dụng “quyền lực xã hội, giá trị xã hội” trong hoạt động quản lý phát triển xã hội; 6) Có mục tiêu cốt lõi là kiểu kiến tạo phát triển, đảm bảo sự hài hòa, bền vững, đồng bộ, tổng thể, kịp thời, khả thi; 7) Nhấn mạnh việc xây dựng tầm nhìn chiến lược, minh bạch, giải trình; huy động đồng thời các nguồn: nhà nước, người dân, cộng đồng, quốc tế; kết hợp hài hòa giữa mục tiêu theo thời gian và lĩnh vực trong hoạt động quản lý phát triển xã hội; 8) Đề cao tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở dữ liệu; vai trò của tri thức, ứng dụng khoa học và công nghệ là nền tảng của hoạt động quản lý phát triển xã hội; 9) Đánh giá hiệu quả của hoạt động quản lý phát triển xã hội dựa trên đầu ra: kết quả và tác động; xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế-thực hiện công bằng xã hội và giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội; 10) Thể hiện sự song hành và hỗ trợ cho tính hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trong bối cảnh hiện nay; 11) Quản lý phát triển xã hội phải xuất phát từ thực tiễn; xuất phát từ trình độ, đặc điểm, yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và từng địa phương; phù hợp với chuẩn mực, giá trị xã hội hiện hành; 12) Những thành quả phát triển kinh tế đang được quản lý và tác động tích cực đến phát triển xã hội; 13) Những hoàn thiện trong thể chế và chính sách quản lý xã hội đã tạo ra được những đột phá trong trong phát triển xã hội bền vững...
Bên cạnh những thành công bước đầu như đã nêu trên, trong nhận thức, tư duy và hành động quản lý phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam còn không ít hạn chế, bất cập, cụ thể là: Thực trạng của một đất nước có mức thu nhập thấp bắt đầu chuyển sang thu nhập mức trung bình rất hạn chế đến điều kiện phát triển xã hội. Những biểu hiện của quản lý thành quả phát triển xã hội còn thiếu bền vững, như: các thành quả tiến bộ xã hội có xu hướng chậm lại; hiệu ứng giảm dần của tác động tích cực của kinh tế đến phát triển xã hội; sự bất công bằng trong phân phối thu nhập có xu hướng gia tăng. Sự bất cập của các chích sách liên quan đến phát triển xã hội bền vững; những bất cập trong các yếu tố cấu thành bộ máy tổ chức quản lý phát triển xã hội. Chậm đổi mới trong tư duy, nhận thức và hành động về quản lý phát triển xã hội so với những yêu cầu đặt ra trong thực tiễn. Còn không ít biểu hiện thể hiện sự thiếu nhất quán trong tư duy, nhận thức hành động trong quản lý phát triển xã hội trong thực tiễn của các cấp ngành, cơ quan tổ chức, đơn vị, đội ngũ cán bộ; nhất là ở cấp cơ sở. Chưa xây dựng được hệ thống lý luận chỉnh thể, thực chứng về quản lý phát triển xã hội trên từng lĩnh vực và cấp độ lãnh đạo, quản lý; những “khoảng trống” về lý luận về quản lý phát triển xã hội nằm trong tổng thể những hạn chế của lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội. Trong thực tiễn xã hội đang xảy ra khá phổ biến tình trạng: chủ trương chính sách đúng, tuy nhiên tính hiệu lực/hiệu quả chưa cao so với mục tiêu đề ra và nguồn lực tác động. Hệ thống giải pháp theo hướng quản lý phát triển xã hội khá đồng bộ, nhưng thiếu tính chủ động của các chủ thể liên quan. Chưa xác định rõ vai trò, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong nhận thức, tư duy và hành động quản lý phát triển xã hội bền vững. Nguồn lực, công nghệ dành cho quản lý phát triển xã hội bền vững còn chưa tương xứng, bất cập. Chưa thực sự xử lý kịp thời, hài hòa, đồng bộ mối quan hệ: nhà nước, thị trường và xã hội; quy luật của thị trường được vận dụng vào quản lý phát triển xã hội còn bị nhận thức lệch lạc hoặc lạm dụng, gây nhiều bức xúc trong xã hội. Mối quan hệ giữa phát triển xã hội với phát triển kinh tế chưa được xử lý thỏa đáng; việc vận dụng các quy luật của thị trường không thể giống như trong phát triển kinh tế, nếu máy móc, xơ cứng còn dẫn tới cản trở sự phát triển xã hội. Vai trò, chức năng cũng như tính giới hạn của các chủ thể ngoài nhà nước trong quản lý phát triển xã hội chưa được làm sáng rõ, còn nhiều mặt mâu thuẫn. Việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập, vận dụng quản lý phát triển xã hội trong các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo; trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị và cũng như bên ngoài hệ thống chính trị chưa đáp ứng được so với yêu cầu thực tiễn; …
ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI BỀN VỮNG
Để góp phần triển khai quản lý phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay, cần quan tâm đến một số nội dung chủ yếu như sau:
Một là, việc Đảng, Nhà nước Việt Nam sớm quan tâm nghiên cứu, hoạch định và thực hiện chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội trong khoảng 20 năm vừa qua đã thể hiện sự nhạy bén về tư duy lý luận, góp phần khẳng định địa vị, vai trò, năng lực và uy tín lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ XIII vấn đề quản lý phát triển xã hội bền vững đã trở thành một chủ đề, mục tiêu quan trọng và được trình bày độc lập trong Văn kiện Đại hội Đảng. Khẳng định mô hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội là một bước tiến mang tính đột phá thể hiện sự phát triển về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này là hoàn toàn phù hợp, nhằm đáp ứng với yêu cầu mới của bối cảnh trong nước và thế giới hiện nay, nhất là sự tác động của cuộc cách cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với nhiều bất định, rủi ro xã hội, phức tạp và khó tiên lượng…trong quá trình phát triển hiện nay.
Hai là, những thành tựu đổi mới và phát triển đất nước Việt Nam trong hơn 36 năm đổi mới đã cho thấy bằng chứng về mặt lượng lẫn mặt chất của chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thay đổi của quá trình cải cách hành chính, nhất thể hóa các chức danh chủ chốt, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng…trong quản lý phát triển xã hội, đang mở ra những khả năng phát triển mới trong quản lý phát triển xã hội. Điều này đã góp phần khẳng định bản chất ưu việt, tốt đẹp của một chế độ luôn vì con người, trở thành một tiêu chí xác định sự định hình từng bước giá trị của chủ nghĩa xã hội trong hiện thực. Phát triển xã hội là mục tiêu cuối cùng trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Phát triển kinh tế là điều kiện cần và thực hiện phân phối thành quả của phát triển kinh tế là điều kiện đủ cho phát triển xã hội bền vững. Để góp phần hiện thực hóa giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa cần đặt các mục tiêu cao cho phát triển xã hội bền vững phù hợp với yêu cầu phát triển trở thành nước thu nhập trung bình cao và năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045.
Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, để Việt Nam trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì một trong những yêu cầu đặt ra là phải phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững với chất lượng, hiệu lực, hiệu quả ngày càng cao hơn. Với những mục tiêu chỉ báo quan trọng phải được hiện thực hóa: 1) Xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn chỉnh với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; 2) Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; 3) Hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; 4) Phát triển thể chế chính trị trong mối quan hệ với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; 5) Quản lý phát triển xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; 6) Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội với: “cân bằng động” các mục tiêu cốt lõi: tăng trưởng kinh tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội; 7) Phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Các thành quả của phát triển xã hội phải được bảo đảm vững chắc bằng các thành quả về phát triển kinh tế.
Bốn là, đổi mới quản lý phát triển xã hội trong điều kiện ngày nay đang là một yêu cầu cấp bách của thời đại mới đối với tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Bối cảnh phát triển đất nước và yêu cầu quản lý phát triển xã hội bền vững đòi hỏi phải đổi mới nhận thức, tư duy và hành động của mọi chủ thể trong toàn bộ hệ thống xã hội, mà trước hết là của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Tránh mọi biểu hiện bàng quan, thiếu tự tin, thụ động, nhưng không chủ quan, nóng vội, duy ý chí trong đổi mới tư duy và hành động về quản lý phát triển xã hội bền vững. Do đó, để tạo bước đột phá trong thực hiện quản lý phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, vấn đề then chốt là: phải xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết.
Năm là, tăng cường xây dựng, hoàn thiện phát triển thể chế, cũng như hệ thống chính sách và pháp luật theo định hướng vì mục tiêu phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội bền vững. Cụ thể là: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người…Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và những bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, theo vị trí việc làm. Đồng thời, tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”… Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.
Sáu là, cần phải tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng của Đảng và Nhà nước theo hướng tiếp cận: đa, liên, xuyên ngành khoa học. Cần khẩn trương tiến hành mở chuyên ngành đào cử nhân và sau đại học về Quản lý phát triển xã hội cho đất nước. Trên cơ sở đó từng bước đẩy mạnh việc đổi mới tư duy, thống nhất về tư tưởng và hành động trong hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội về sự cần thiết, tính tất yếu, phương thức, kỹ năng, nội dung, mục tiêu…quản lý phát triển xã hội trong bối cảnh hiện nay. Nhất là đối với những vấn đề mới, phức tạp, khó tiên lượng, bất thường, nhiều rủi ro xã hội trong quá trình phát triển của đất nước. Đồng thời, các cơ quan tham mưu của Đảng, Nhà nước cần sớm nghiên cứu để Đảng, Nhà nước ban hành nghị quyết/chính sách có tính chất chuyên đề, chuyên sâu nhằm chỉ đạo, điều hành, quản lý thống nhất trong toàn quốc về việc triển khai, vận dụng cụ thể hóa đạt kết quả, hiệu quả trong thực hiện quản lý phát triển xã hội bền vững ở từng cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương, vùng, miền...
Bảy là, cần nghiên cứu và thực hiện thí điểm từng bước nhằm hướng đến việc tăng cường sự hiện diện của mô hình quản lý phát triển xã hội thực tiễn - quản lý ở cấp quốc gia cũng như ở cấp địa phương ở chiều cạnh tổ chức - thể chế. Cần vận dụng nhiều hơn mô hình lồng ghép để tích hợp nhiều hơn các yếu tố xã hội vào trong các chính sách, chương trình, dự án phát triển “trong từng bước đi, trong từng chính sách phát triển”.
Nguồn Tạp chí Tuyên giáo
--------------
(1) (2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.147, 148, 330.