Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta đề ra chủ trương: Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Đây là lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “quản trị quốc gia” trong Văn kiện Đại hội của Đảng. Trên tinh thần đó, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021- 2030 cũng xác định: Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại.
(Ảnh minh hoạ - Nguồn: hdll.vn)
GÓC ĐỘ TIẾP CẬN TRI THỨC XÃ HỘI HỌC
Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả là một trong những mục tiêu trọng tâm mà Đại hội XIII của Đảng ta xác định. Để thực hiện thành công việc đổi mới quản trị quốc gia rất cần có đổi mới về nhận thức, tư duy lẫn hành động của toàn bộ hệ thống chính trị và hệ thống xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đã bước đầu tạo ra những tiền đề có tính chất tất yếu, khách quan và phổ biến để tiến hành các nghiên cứu khoa học, trong đó có nghiên cứu xã hội học liên quan đến hoạt động “quản trị quốc gia”. Trong khuôn khổ phân tích có thể xác lập một số vấn đề liên quan đến tri thức xã hội học. Cụ thể là:
Một là, dựa trên các đặc trưng của khoa học xã hội học để xác lập những yêu cầu liên quan đến nghiên cứu về chủ đề hoạt động “quản trị quốc gia”: (1) Tính khách quan, lôgíc đặt trong bối cảnh xã hội; (2) Tính thực chứng, có độ tin cậy cao khi đưa ra các kết luận nghiên cứu; (3) Tính duy vật biện chứng trong nhận định, đánh giá; (4) Tính lý giải thấu hiểu dựa trên các bối cảnh văn hóa để giải thích, tìm kiếm sự hiểu biết về bản chất của các hiện tượng xã hội; (5) Các phương pháp nghiên cứu hiện đại, liên ngành: quan sát tham dự; quan sát không tham dự; phiếu anket; phiếu phát vấn; thảo luận nhóm tập trung; phỏng vấn sâu; phân tích nội dung tài liệu; phân tích số liệu thống kê; nghiên cứu trường hợp...; (6) Khoa học đề cao tính chỉnh thể, hệ thống, toàn diện, thực chứng về hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội…
Hai là, nói đến tiếp cận xã hội học về “quản trị quốc gia”, trước hết cần nhấn mạnh sức mạnh tư duy “đa biến, đa chiều” của khoa học xã hội học. Tư duy xã hội học sẽ đi sâu tìm hiểu tất cả các góc cạnh thời cơ và thách thức của “quản trị quốc gia” ở Việt Nam trong bối cảnh mới. Từ góc độ tiếp cận tư duy xã hội học có thể nhận thấy, bên cạnh mặt tích cực, tư duy xã hội học sẽ luôn nhấn mạnh, quan tâm đến những hệ quả xã hội, những dự báo xu hướng và đề xuất giải pháp kiểm soát, hạn chế những tác động tiêu cực của “quản trị quốc gia” trong điều kiện và mục tiêu “đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Do đó, từ góc nhìn xã hội học, chúng ta phải có nhận thức đầy đủ, kịp thời để có hành động, giải pháp phù hợp nhằm chủ động giảm thiểu những hệ quả xã hội không mong muốn có thể xảy ra trong quá trình thực hiện mô hình “quản trị quốc gia” ở Việt Nam.
Ba là, xã hội học là khoa học rất quan tâm đến việc phát triển lý thuyết và vận dụng lý thuyết để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội. Xã hội học hình thành và phát triển một hệ thống các lý thuyết để giải thích một cách khoa học và bản chất những hiện tượng xã hội, trong đó, có các lý thuyết giải thích mối quan hệ giữa tính chủ động và tích cực của con người với tính quy định chặt chẽ của cấu trúc xã hội. Song, con người có vai trò tích cực chủ động nhất định, họ tạo ra xã hội, và xã hội là do con người thiết kế nên, nhưng đồng thời họ cũng chịu sự ràng buộc bởi môi trường, cấu trúc xã hội. Do đó, để quá trình “quản trị quốc gia” đạt được những kết quả tích cực như mục tiêu đề ra luôn phải đồng thời nhấn mạnh tiếp cận và quan tâm xử lý các vấn đề liên quan đến hoạt động “quản trị quốc gia” ở cả hai chiều cạnh: yếu tố sáng tạo, năng lực và vai trò của cá nhân con người… cùng đồng thời với sự chi phối, ảnh hưởng bởi môi trường, cấu trúc xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật…
Bốn là, khoa học xã hội học vận dụng cách tiếp cận thiết chế xã hội để giải thích và quản lý các hiện tượng xã hội nảy sinh trong quá trình hiện đại hóa và phát triển của xã hội. Thiết chế xã hội là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực xã hội có chức năng khuyến khích và kiểm soát, giám sát, điều tiết và điều chỉnh các hành vi, quan hệ xã hội đối với các chủ thể tham gia nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định của xã hội. Trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay, hoạt động “quản trị quốc gia” đã, đang và sẽ bị chi phối đồng thời bởi hệ thống thiết chế xã hội: thiết chế pháp luật; thiết chế chính trị; thiết chế kinh tế; thiết chế khoa học; thiết chế giáo dục; thiết chế đạo đức; thiết chế văn hóa; thiết chế tôn giáo; thiết chế truyền thông đại chúng;... Do vậy, những kết quả hay bất cập, thuận lợi hay khó khăn, lực hút hay lực đẩy; đề xuất giải pháp liên quan đến “quản trị quốc gia” luôn cần được phân tích một cách tổng thể từ chính các thiết chế xã hội có liên quan. Chẳng hạn, phải truy tìm nguyên nhân sâu xa nhất làm cho tiến trình “quản trị quốc gia” còn gặp nhiều khó khăn, kém hiệu quả xuất phát từ những thiết chế xã hội nào; và từ đó đưa ra các giải pháp từ chính thiết chế xã hội đó.
Năm là, xã hội học có thế mạnh là sử dụng kết hợp đồng thời cả hai phương pháp nghiên cứu: định lượng và định tính dựa trên bằng chứng và độ tin cậy cao. Khoa học xã hội học nhấn mạnh tính khách quan, trung tính trong việc đưa ra các nhận định luận điểm, luận cứ. Do đó, một trong những vấn đề có tính cốt lõi của nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” là phải đo lường, lượng hóa được chất lượng, hiệu lực và hiệu quả mang tính toàn diện và hệ thống những vấn đề liên quan đến “quản trị quốc gia”. Xã hội học nghiên cứu về “quản trị quốc gia” phải hướng đến khả năng nắm bắt kịp thời, chính xác cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc tham vấn, đề xuất chính sách nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra của từng nhóm xã hội, từng chủ thể quản trị, từng lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình tham gia vào các hoạt động “quản trị quốc gia”.
Sáu là, xã hội học có nguồn gốc hình thành và phát triển từ góc độ tiếp cận đa - liên- xuyên - ngành. Tiếp cận “quản trị quốc gia” trên nền tảng khoa học đa- liên- xuyên ngành trong các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng “quản trị quốc gia” chính làtiếp cận theo các lĩnh vực: khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Tiếp cận đa - liên - xuyên ngành khoa học trong “quản trị quốc gia” đòi hỏi phải đẩy mạnh việc thiết lập tư duy mới, cách làm mới và mục tiêu thích hợp trong bối cảnh mới. Trong “quản trị quốc gia” cần phải thực sự phát triển khoa học-công nghệ đi trước, thực sự coi khoa học-công nghệ là “quốc sách hàng đầu” trong dẫn dắt và thúc đẩy “quản trị quốc gia”. Do đó, chỉ có thể mở rộng tối đa biên độ kết nối sự hiểu biết của các khoa học: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật- công nghệ, khoa học xã hội - nhân văn, khoa học lý luận chính trị để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạch định và thực hiện chính sách “quản trị quốc gia”.
Bảy là, khoa học xã hội học luôn nhấn mạnh chức năng dự báo xã hội. Do đó, nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” cần đặt trong mối quan hệ bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo chính xác về tất cả các mặt trong đời sống xã hội; từ kinh tế, chính trị, văn hóa đến việc tổ chức, quản lý và điều hành xã hội…đều chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Do đó, trong nghiên cứu và đề ra chính sách “quản trị quốc gia” luôn phải tính đến vai trò tác động và mục tiêu của những thay đổi về cách tổ chức, điều hành xã hội, cách suy nghĩ, ứng xử, lối tư duy của con người...
Tám là, cách tiến cận xã hội học nhấn mạnh mục tiêu “cùng thích nghi, cùng thắng, cùng phát triển”. Do đó, nghiên cứu xã hội học về “quản trị quốc gia” có sức mạnh trong nhận diện, phân tíc, đánh giá làm rõ vấn đề và hướng đến mục tiêu: “cùng thích nghi, cùng thắng, cùng phát triển” của các chủ thể, lĩnh vực có liên quan.
Chín là, từ hướng tiếp cận xã hội học cho thấy, để tạo ra nền tảng thống nhất cho hoạt động “quản trị quốc gia” cần phải xây dựng và hiện thực hóa thành công Bộ chỉ số “quản trị quốc gia” định lượng, dựa trên bằng chứng.
Bộ chỉ số “quản trị quốc gia”, phải thể hiện được các yếu tố cơ bản cấu thành: (1) Vai trò và hiệu quả hoạt động của Chính phủ; (2) Mức độ tăng năng suất của quốc gia trong cách mạng 4.0 là động lực quan trọng cải thiện mức sống trong dài hạn như thể chế, cơ sở hạ tầng, ứng dụng công nghệ ICT hiện đại…(3) Quyền lực mềm của quốc gia khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế như hệ số tín nhiệm quốc gia, thương hiệu quốc gia…(4) Môi trường kinh doanh với hệ sinh thái đổi mới sáng tạo như năng lực đổi mới sáng tạo, năng động trong kinh doanh; (5) Chất lượng cuộc sống của nhân dân như: thu nhập, y tế, giáo dục,…là kết quả và là mục tiêu cần đạt được của hoạt động “quản trị quốc gia”, trực tiếp thể hiện hiệu quả làm việc của Chính phủ với tư cách là chủ thể chính trong nền “quản trị quốc gia”(1). (Nguyễn Văn Thành, Đặng Thành Lê, 2022).
“Quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả được hiểu là: Sự kết hợp hợp lý giữa các yếu tố của quản lý công truyền thống (mệnh lệnh- phục tùng), với quản lý công mới (phân cấp, phân quyền, cạnh tranh, tập trung kết quả đầu ra) và những trụ cột của “quản trị quốc gia” tốt (Nhà nước pháp quyền, mở rộng sự tham gia của các chủ thể bên ngoài nhà nước với ý nghĩa đối tác, đồng thuận trong xây dựng phát triển quốc gia) phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện thực tế của quốc gia. |
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, hiệu quả là chủ trương lớn của Đảng, đặt ra những yêu cầu khách quan về đổi mới thể chế quản trị, tư duy, nhận thức, vị trí, vai trò của các chủ thể..., đồng thời, cần tham khảo, tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm tốt của thế giới trên cơ sở phù hợp với truyền thống, lịch sử, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa và đặc điểm kinh tế - xã hội của nước ta(2)(Nguyễn Văn Thôi, 2021).Sự xuất hiện của “quản trị quốc gia” là một xu thế tất yếu, đáp ứng nhu cầu phát triển khách quan của xã hội và thời đại. Đây là một phương thức mới về quản lý, điều hành xã hội. Song, sự tất yếu, khách quan này cần được nhận thức và hành động dựa trên nền tảng khoa học, trong đó có tri thức xã hội học.
Cho đến nay, tùy thuộc vào trình độ phát triển cũng như đặc thù bối cảnh, mỗi quốc gia có thể theo đuổi những triết lý và mô hình khác nhau trong việc xây dựng nền “quản trị quốc gia”, nhưng những triết lý và mô hình đó đều thống nhất việc xem xét người dân là trung tâm của nền quản trị quốc gia. Mục đích cuối cùng của “quản trị quốc gia” là đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển bền vững của quốc gia nhằm tạo lập, duy trì và củng cố những giá trị cần thiết cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, việc xác lập các nguyên tắc, mục tiêu: “nhà nước của dân, do dân và vì dân; dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng; sự hài lòng, hạnh phúc của nhân dân”, cũng như kết quả bước đầu của các tiến trình này chính là những bằng chứng sinh động chứng minh những điều kiện, tiền đề thuận lợi để Việt Nam xây dựng nền “quản trị quốc gia” phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay.
Xây dựng và hoàn thiện nền “quản trị quốc gia” hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần phải lượng hóa chính xác, kịp thời sự tác động, vai trò của các nhân tố chủ quan và khách quan.
Về chủ quan, đó là hiện trạng năng lực, tính chuyên nghiệp, đồng bộ của bộ máy công quyền và sự ổn định của quá trình hoàn thiện bộ máy; chất lượng và hiệu quả của hệ thống luật pháp; ý thức “pháp quyền” của người dân; môi trường dân chủ, minh bạch trong xã hội; trình độ dân trí, kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ...
Về khách quan, đó là đặc điểm văn hóa, tính ổn định chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc; tác động của các nhân tố bên ngoài...Thực tiễn lịch sử cho thấy, các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa thì việc xây dựng và hoàn thiện nền “quản trị quốc gia” hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả sẽ nhanh hơn. Tuy nhiên, do tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình toàn cầu hóa, những nước đi sau vẫn có thể rút ngắn khoảng cách, thậm chí đi tắt, đón đầu quá trình này(3)(Nguyễn Đặng Phương Truyền, 2021).
Trên cơ sở trình độ phát triển và đặc điểm của mục tiêu phát triển đất nước, Việt Nam cần tiến hành những biện pháp tổng thể, như đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới thể chế kinh tế, phát huy dân chủ, nâng cao năng lực quốc gia,... và cần thêm một khoảng thời gian nhất định mới có thể tiến gần các tiêu chí của quản trị quốc gia tốt. Hơn nữa, ngay tại nhiều quốc gia phát triển, việc tiếp cận với các tiêu chí của quản trị tốt vẫn còn là một vấn đề khó khăn. Trong bối cảnh Việt Nam mới chỉ bắt đầu tiến trình “quản trị quốc gia” vì vậy việc nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế luôn phải gắn liền với quá trình kiểm soát kỳ vọng, tránh khuynh hướng nóng vội, chủ quan, áp dụng máy móc của các chủ thể “quản trị quốc gia”. Do đó, vấn đề đặt ra là cần tiếp cận một cách có hệ thống, dựa trên nền tảng sức mạnh khoa học, trong đó có tri thức xã hội học. Trên cơ đó, làm rõ bản chất và xu hướng khách quan của “quản trị quốc gia”, cũng như xác định những mục tiêu, nhiệm vụ khả thi trong đổi mới “quản trị quốc gia” phù hợp với lịch sử, truyền thống dân tộc, các đặc điểm của thể chế kinh tế, chính trị và xã hội ở nước ta hiện nay.
Bế mạc Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV - Ảnh TTXVN
Việc chuyển đổi nhận thức, tư duy và hành động từ “đối tượng quản lý sang đối tác quản trị” là một vấn đề mới, không dễ thực hiện bởi “tư duy quản lý cũ, tình trạng quan liêu, cửa quyền, lợi ích nhóm” đang tồn tại không ít ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có một nhận thức mới, tư duy mới và hành động phù hợp về vị trí, vai trò chủ thể, mối quan hệ đối tác giữa Nhà nước, người dân, doanh nghiệp và tổ chức xã hội trong nền “quản trị quốc gia”. Sự tham gia, phối hợp của “đa chủ thể”, bao gồm: nhà nước, người dân, tổ chức xã hội, doanh nghiệp trong nền “quản trị quốc gia” là cơ sở để củng cố, nâng cao niềm tin, sự đồng thuận xã hội, thúc đẩy và bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của quốc gia. Từ chức năng, hoạt động, cũng như những đóng góp của doanh nghiệp, người dân và tổ chức xã hội, cần có sự nhận thức mới, tư duy mới, cách làm mới nhằm thúc đẩy vai trò, sức mạnh của các chủ thể này đối với xã hội và trong nền “quản trị quốc gia” của Việt Nam.
Cần tăng cường thực hiện các giải pháp dựa trên bằng chứng, đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, khả thi trong hoạt động “quản trị quốc gia”. Bao gồm: Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, trong đó ưu tiên xây dựng đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động và quản lý sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số. Thứ ba, đổi mới trong quản trị phát triển nguồn nhân lực, thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu vực và thế giới, trong đó ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ. Thứ tư,đẩy mạnh thực hiện chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, tăng cường tính minh bạch, tạo thuận lợi hơn cho người dân trong giao dịch với cơ quan nhà nước và tiếp cận dịch vụ công. Thứ năm, xử lý hài hòa quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội trong “quản trị quốc gia”. Thứ sáu, cần có những đột phá về quản lý phát triển công nghệ và phát triển thị trường khoa học và công nghệ; đưa khoa học và công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng(4)(Vũ Trường Sơn, Vũ Văn Hà, 2021).
Thực hiện “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, hiệu quả là một nhiệm vụ cấp thiết ở Việt Nam hiện nay. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng giữ vai trò quan trọng trong quá trình này. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, có trọng trách đưa ra định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước, đồng thời cũng là chủ thể thực hiện chức năng hoạch định đường lối, chính sách trong “quản trị quốc gia”. Đây là hai chức năng, nhiệm vụ song trùng, được thực hiện bởi cùng một chủ thể. Với vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đồng thời là chủ thể thực hiện chức năng hoạch định trong “quản trị quốc gia”, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công của quá trình đổi mới “quản trị quốc gia” ở nước ta. Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn dựa trên bằng chứng về vị trí, vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối và thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong mô hình “quản trị quốc gia” của Việt Nam.
Tóm lại, đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả là một trong những trọng tâm đột phá mà Đại hội XIII của Đảng ta đã xác định. Hoạt động “quản trị quốc gia” đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết kịp thời, hiệu quả. Để thực hiện thành công việc đổi mới “quản trị quốc gia” rất cần những đổi mới cả về tư duy lẫn hành động của cả hệ thống chính trị và hệ thống xã hội. Có nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết, trong đó có vấn đề phát huy vai trò của tri thức xã hội học trong nghiên cứu và hoạch định, thực hiện chính sách “quản trị quốc gia”.
“Quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh, hiệu quả cần xem xét trên hai phương diện: quản trị nội bộ quốc gia với các yếu tố như (vai trò tối thượng của pháp luật, hệ thống thể chế có hiệu lực; coi trọng sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý công; tôn trọng quyền con người; thu hẹp khoảng cách công - tư; đề cao sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến lợi ích, cuộc sống của họ)... |
Nguồn Tạp chí Tuyên giáo
---------------
(1) Nguyễn Văn Thành, Đặng Thành Lê: Về bộ chỉ số “quản trị quốc gia” trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0.https://www.quanlynhanuoc.vn/2022.
(2) Nguyễn Văn Thôi: Những vấn đề cơ bản về đổi mới “quản trị quốc gia” ở nước ta hiện nay.Tạp chí Cộng sản, năm 2021.
(3)Nguyễn Đặng Phương Truyền: Nâng cao năng lực quản trị của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, năm 2021, số 15.
(4) Vũ Trường Sơn, Vũ Văn Hà (2021): Quản trị quốc gia trong bối cảnh chuyển đổi số (https://vjst.vn/vn/tin-tuc/4490/quan-tri-quoc-gia-trong-boi-canh-chuyen-doi-so.aspx).